Bỗng có người gõ vai, tôi giật mình quay lại. Gương mặt của vị sư phụ áng ngay tầm mắt, tôi chỉ biết há hốc mồm.
- Ngươi thấy ta quá soái có phải không? - Sư phụ hỏi, giọng hóm hỉnh.
Tôi nghe xong câu kia thì ôm bụng cười như điên. Ngài uống một ngụm rượu từ bầu hồ lô, phẩy chiếc quạt rách rưới vào mặt tôi, nói thật tỉnh:
- Nữ thí chủ không cần ngạc nhiên trước dung mạo này của ta bởi vì “sắc tức thị không, không tức thị sắc.” Dung mạo dù cho đẹp đến đâu cũng là vẻ bề ngoài, quan trọng là trong này. - Ngài nó đồng thời đập quạt phành phạch lên lồng ngực.
Tôi thấy thấm câu “sắc tức thị không, không tức thị sắc.” Nhưng qua lời của ngài sao lại ra một câu chuyện hài như vậy? Lần này, tôi thêm chắc chắn ngài chính là Tế Công phật sống. Một nhà tu, chưa xuống tóc, uống rượu, hát nghêu ngao, trần tục trong tâm vốn dĩ vứt bỏ từ lâu. Tôi tằng hắng mấy tiếng, cung kính chắp tay, cúi đầu:
- Tiện nữ xin chào Tế công sư phụ!
Đang cười tươi thì nụ cười kia thu lại, ngài hỏi:
- Ai nói bần tăng là “Tế Công?”
Tôi ngẩng mặt lên nhìn lại lần nữa, quả thật rất giống với tạo hình các phiên bản của Tế Công phật sống trên tivi. Từ quần áo, nón vải, hồ lô rượu và cây quạt tả tơi kia. Thêm nữa, đây là năm Thuần Hy thứ nhất đời nhà Tống mà Tế Công lại sống vào đời Tống, rất có thể chính là ngài.
Tôi nheo nheo mắt, chau mày quan sát. Gương mặt của ngài quả thật rất tuấn tú, nếu đem tóc rối bời kia cắt đi, mặc một bộ y phục mới thì hẳn sẽ khác. Tôi gãi đầu, rồi nói tiếp:
- Nếu không phải Tế Công sư phụ, vậy thì ngài là ai?
- Bần tăng à? - Ngài lại cười, quạt rách phe phẩy trước ngực, trông như một cao tăng đắc đạo. - Bần tăng không dám giấu gì nữ thí chủ, pháp danh của bần tăng là Đường Đạo Minh, hiện đang học phật tại chùa Linh Ẩn.
- “Linh Ẩn Tự?”
- Vâng thưa thí chủ. Chính là Linh Ẩn Tự.
“Linh Ẩn Tự” thì đúng còn “Đường Đạo Minh” thì không đúng. Tôi thở dài thất vọng, lúc nãy còn nhầm là Tế Công phật sống. Mà thôi đi, bà đã bảo đợi thì tôi cứ đợi, lâu một chút cũng không sao. Tôi cứ ngoan ngoãn mà chờ kết quả. Không gấp, không gấp, tất cả đều dựa vào duyên số. Tôi thở dài, hai tay cầm ô giấy nâng thành quyền trước ngực, cúi chào vị cao tăng Đường Đạo Minh kia.
- Nếu đã vậy tiện nữ đã đắc tội với Đạo Minh sư phụ, xin cáo từ!
- Này, nữ thí chủ, xin chậm một chút! - Ngài bước lên, quạt vẫn luôn trên tay đưa tới đưa lui, vừa đi vừa nhảy, nói những câu đầy ý tứ. - Đợi một loài hoa nở, có khi phải đợi cả đời mới thấy hoa rực rỡ. Đời người vốn ngắn ngủi, đã không thuộc về nơi đây, tuyệt đối đừng quyến luyến. Sau này rời đi, chỉ còn lại đau lòng.
Tôi nghe hết mấy lời chân thành của ngài, song vẫn còn nhiều thắc mắc, liền mạo muội hỏi thêm:
- Ngài có thể nói rõ hơn được không? Tiện nữ muốn biết!
- Kiếp trước kiếp này đều như nhau, số đã định uyên ương mãi mãi cũng không được bên nhau. Hà tất phải đi ngược thiên ý.
Tôi đã không thể hiểu được hết ý nghĩa những gì ngài muốn khuyên tôi, ngài càng giải thích càng mơ hồ. Cái gì mà “số đã định” rồi “đi ngược thiên ý.” Tôi cắn môi, như đã quyết bèn bạo gan rành rọt:
- Đúng, tôi là kẻ đi ngược thiên ý, xuyên không đến đây. Một công dân bình thường của thế kỷ hai mươi mốt, nơi tôi ở là xóm nhỏ tên Trường Tấn. Vào đêm ba mươi Tết do ngã cầu thang ở nhà hàng của chú Chín mà đến. Mượn thân thể của người khác để sống tiếp cuộc đời. Nhưng tất cả không phải tôi cố ý cải lại ý trời, không thể trách tôi được.
Ngài lắng nghe chăm chú, đợi tôi vừa dứt câu liền phì cười:
- Nữ thí chủ thì chính là nữ thí chủ. Một nghìn năm trước, một nghìn năm sau chỉ cách nhau một nghìn năm, đều là một mà.
“Một nghìn năm trước, một nghìn năm sau chỉ cách nhau một nghìn năm.” Câu nói này, câu nói này tôi đã nghe từ kiếp trước. Chính cái lúc gặp ma ở ngã tư nọ, chẳng lẽ người bí ẩn mặc áo tu hành trên đường lớn là Đạo Minh sư phụ sao? Trôi theo dòng suy nghĩ cho đến khi ngài uống hết rượu trong bầu tôi mới định thần trở lại. Ngài cười rồi nói tiếp:
- Ấn đường nữ thí chủ đột nhiên đen tối. Đi mau, cẩn thận họa ập xuống đầu.
Dứt lời, ngài lại hát câu hát quen tai. Chân nọ nhảy, chân kia đá, khiến lũ trẻ con trên phố bảo nhau chạy theo sau ngài múa hát, chọc ghẹo. Cứ như vậy câu hát bay qua các ngõ, vang xa từ đầu phố đến cuối phố.
Thôi rồi, chỉ là người giống người. Tôi nhún vai, nói một mình:
- “Đại hoạ”, có cần hù tôi tới mức quá đáng vậy không? So với chuyện tôi xuyên tới Nam Tống, thử hỏi còn đại hoạ nào đáng sợ hơn? Vừa nãy tôi còn nghĩ ngài là Tế Công phật sống nữa đó. Rốt cuộc lại là hàng “fake” (hàng nhái.) Đạo Minh ngài không nói được câu nào tốt đẹp cho người lần đầu gặp sao? - Nói xong tôi lắc đầu, hướng phía Đê Bạch rảo bước.
Tới nhịp đầu tiên của Đoạn Tâm Kiều, vì đi vội, tôi xém chút nữa vấp phải thiếu niên đang ngồi co ro, đầu chôn giữa hai chân, vai run run, thút thít khóc. Nắng đã lên cao, tôi do dự một lúc mới mở ô giấy dầu che cho thiếu niên. Thiếu niên ngước lên nhìn tôi bằng cặp mắt sưng đỏ tự khi nào.
Bỗng, thiếu niên đứng lên, ôm chầm lấy tôi, gọi to:
- Hoàng Nguyệt tỷ! Hoàng Nguyệt tỷ!
Bị thiếu niên ôm chặt, tôi xém chút nữa chết vì tắt thở. Đẩy thiếu niên ra, tay kia vẫn cầm ô che cho đệ khỏi nắng, tôi hỏi trong khi đệ cặm cụi chặm đi dòng nước mắt lấm lem trên mặt:
- Tiểu đệ đệ vì sao đệ lại khóc?
Thiếu niên hạ tay áo, một mảng vải nâu thô nhoè nhoẹt chẳng thể thấm nổi thương tâm của đệ. Cuối cùng nặn ra một câu:
- Thẩm không phải Hoàng Nguyệt tỷ!
“Thẩm,” tiếng