Mười hôm sau, Bụt khoác y, ôm bát và rời thành Vương Xá.
Người đi lên miền Bắc, vượt sông Hằng, tới thăm viếng chúng khất sĩ ở tu viện Trùng Các, rồi người lại lên đường, hướng về thủ đô Savatthi.
Mùa mưa sắp tới, và người cần về tu viện Cấp Cô Độc để kịp thời chuẩn bị cho khóa an cư.
Theo người có đại đức Ananda, các đại đức Sariputta, Moggallana và khoảng ba trăm vị khất sĩ khác.Tới Savatthi, Bụt về thẳng tu viện Jetavana.
Các thầy chờ Bụt ở đây rất đông.
Năm nay các vị khất sĩ và nữ khất sĩ về an cư rất đông.
Tin tức về những cuộc biến động ở kinh đô Magadha ai cũng đã được nghe.
Thấy Bụt về nguyên vẹn và khỏe mạnh, mọi người đều tỏ vẻ mừng vui.
Ni sư Khema lãnh đạo một đoàn nữ khất sĩ đến thăm viếng Bụt.
Năm nay bà được đưa lên làm vị lãnh đạo tối cao bên ni giới.
Ni sư Pajapati đã viên tịch mười năm về trước.Quốc vương Pesanadi nghe Bụt về cũng lập tức đến tu viện thăm người.
Vua hỏi thăm Bụt về tình hình ở Rajagaha.
Bụt thuật cho vua nghe nhiều chuyện, trong đó có buổi gặp gỡ giữa người và thái hậu Videhi em ruột của vua.
Bụt cho vua biết là thái hậu vẫn được bình yên nhưng chắc là trong lòng còn nhiều sầu khổ, vua cho Bụt biết là vua đã gửi một sứ đoàn qua Rajagaha cách đây hơn một tháng, và yêu cầu Ajatasattu giải thích tại sao có chuyện giam giữ quốc vương Bimbisara và hai vị đại thần.
Quốc vương Ajatasattu là cháu của vua.
Vua bảo nếu cần thì Ajatasattu phải về Savatthi để trình bày mọi sự.
Hiện vẫn chưa thấy sứ đoàn trở về.
Vua cũng cho biết là để tỏ ý phản kháng hành động của quốc vương xứ Magadha, vua đã lấy lại thục ấp mà thượng hoàng đã tặng nước Magadha hơn sáu mươi mấy năm về trước, khi em gái vua về làm chánh hậu của vua Bimbisara.
Thục ấp này thuộc địa phận Baranasi xứ Kasi.Ngày an cư mùa mưa đã đến.
Các trung tâm tu học ở vùng thủ đô và các vùng lân cận đều có đầy các vị khất sĩ và nữ khất sĩ cư trú.
Cứ mười lăm hôm Bụt lại nói pháp thoại một lần tại Jetavana, và các giới khất sĩ cũng như nữ khất sĩ từ các trung tâm khác đều được tới tham dự.
Pháp thoại của Bụt thường được nói vào buổi chiều, ngay sau giờ thọ thực, vì vậy các vị khất sĩ từ những trung tâm xa, đến ngày có pháp thoại, phải nghỉ khất thực để có thì giờ đi thẳng về tu viện.
Các vị đại thích ở thủ đô cố gắng sắp đặt để cúng dường thực phẩm cho các vị ngay khi các vị tới tu viện, để các vị có đủ thời gian thọ thực và nghe pháp.Pháp thoại đầu mà Bụt nói trong mùa an cư năm nay có đề tài là hạnh phúc.
Bụt dạy hạnh phúc là có thật và ta có thể thực hiện được hạnh phúc ngay trong đời sống này nếu ta biết hành theo chánh pháp.Trước hết Bụt cho biết hạnh phúc không phải là sự đam mê vào dục lạc.
Dục lạc có thể cho con người một ảo tưởng về hạnh phúc, nhưng thật sự chỉ là khổ đau.
Người lấy ví dụ của một người bị bệnh hủi, bị bắt buộc vào sống biệt lập ở trong rừng.
Người này luôn luôn cảm thấy ngứa ngáy xốn xang rất khó chịu.
Ông ta đào một cái hố, chất cành khô và những gốc cây mục xuống hố và đốt cháy cho đến khi hố đầy than hồng, rồi ông ta đứng bên cạnh hố, đưa mình mẩy tay chân lên trên hố than để hứng lấy cái nóng của than lửa đang cháy.
Trong khi làm như thế ông ta thấy rất đã ngứa và cảm thấy bớt khổ.
Ngày nào không được hơ mình trên hố than rừng này, ông ta rất lấy làm đau khổ.
May mắn cho ông ta, mấy năm sau bệnh hủi của ông được chữa lành.
Ông trở về sống đời sống bình thường trong thôn xóm.
Một hôm ông ta vào rừng thấy mấy người có bệnh hủi đang đưa mình mẩy của họ hơ trên hố than rừng của họ.
Ông thấy thương xót họ vô cùng.
Hố than rừng nóng quá, tới gần ông chịu không nổi.
Nếu có ai tới trì kéo ông, bắt ông tới gần hố than để đưa mình mẩy hơ lên trên than lửa, ông ta sẽ la tru tréo lên và phản đối kịch liệt.
Cái mà ngày xưa ông cho là làm cho ông sung sướng, bây giờ đã trở thành một mối khổ đau của ông.
Bụt nói: “Dục lạc cũng chỉ là một hố than hồng, chỉ có người bệnh mới thấy dục lạc là vui, những người lành mạnh đều phải xa lánh hố than của dục lạc.”Nếu đam mê dục lạc không phải là hạnh phúc thì cái gì là hạnh phúc? Bụt dạy: “Sống thư thái, tự do, tiếp xúc được với những mầu nhiệm của cuộc sống tức là có hạnh phúc, ý thức được những gì xảy ra trong giờ phút hiện tại, không tham đắm vào bất cứ pháp nào mà cũng không ghét bỏ bất cứ một pháp nào.”Người có hạnh phúc biết quý những gì mầu nhiệm đang xảy ra trong hiện tại; một làn gió mát, một buổi sáng đẹp trời, một bông hoa vàng, một cây trúc tím, một nụ cười của trẻ thơ, một bữa cơm ngon.
Người có hạnh phúc biết thưởng thức những thứ ấy nhưng không bị ràng buộc vào những thứ ấy.
Thấy được vạn pháp là vô thường và vô ngã.
Người ấy không nhận thức các pháp như những gì có thường và có ngã, do đó người ấy không bị ràng buộc bởi các pháp kia, không bị tham đắm vào các pháp kia.
Không bị ràng buộc, không tham đắm, người ấy sống thảnh thơi, không lo âu, không sợ hãi.
Biết rằng một bông hoa có thể sớm nở tối tàn, người ấy thấy được tự tính sinh diệt vô thường của các pháp cho nên không vì sự sinh diệt của vạn pháp mà sầu khổ và lo âu.
Cũng vì thế nên hạnh phúc của người ấy là hạnh phúc chân thật.
Người ấy không lo âu và sợ hãi ngay cả về sự sinh diệt của chính mình.Có người cho rằng muốn có hạnh phúc trong tương lai thì phải chịu khổ trong hiện tại, vì vậy họ hy sinh hiện tại bằng cách chịu khổ chịu cực, về tâm não cũng như về thể xác, để mua lấy hạnh phúc trong tương lai.Bụt dạy rằng sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại, hy sinh hiện tại là phế bỏ sự sống.
Có người nghĩ muốn có an lạc và giải thoát trong tương lai thì phải hành hạ xác thân trong hiện tại.
Nghĩ như thế, họ áp dụng những phép tu khổ hạnh, chịu đói khát và đau đớn trong thân xác và trong tâm tư, dùng khổ đau trong hiện tại, để mua hạnh phúc trong tương lai.
Bụt dạy lối tu hành đó không những làm cho người tu chịu đau khổ trong hiện tại mà còn gây đau khổ trong tương lai nữa.Có người cho rằng đời sống quá ngắn ngủi, không nên nghĩ tới tương lai, phải tận lực hưởng thụ những thú vui dục lạc ngay trong giờ phút hiện tại, Bụt dạy rằng tham đắm vào dục lạc như thế cũng giống như nướng mình trên hố than rừng, hành động này đem lại khổ đau ngay trong hiện tại và cho cả tương lai.Phương pháp tu học của Bụt vượt ra ngoài hai cách sống vừa kể.
Bụt dạy rằng phép sống khôn ngoan nhất là phép sống đem lại hạnh phúc trong hiện tại mà cũng sẽ đem lại hạnh phúc trong tương lai.Tu tập theo đạo giải thoát không phải là ép xác khổ hạnh để cầu mong một hạnh phúc tương lai.
Khi vị khất sĩ ăn ngày một bữa, thực tập thiền tọa, thực tập thiền hành, thực tập Tứ Niệm Xứ, thực tập Tứ Vô Lượng Tâm, thực tập phép Quán Niệm Hơi Thở, vị khất sĩ ấy tạo hạnh phúc cho chính mình và cho những người xung quanh ngay trong giờ phút hiện tại.Ăn mỗi ngày một bữa có thể giúp cho cơ thể nhẹ nhàng, có thể cho ta nhiều thì giờ hơn để tu tập, để sống thoải mái và tự do, và để giúp ích cho người khác.
Không lập gia đình, không có vợ con không phải là một sự ép xác khổ hạnh mà là để có thể sống tự do và thoải mái để có thời gian tu tập và giúp ích cho kẻ khác.Sống đời sống phạm hạnh, người khất sĩ phải thấy đượcniềm vui và hạnh phúc trong mỗi giây phút của cuộc sống hàng ngày.
Nếu sống đời sống phạm hạnh mà thấy khổ đau, ép buộc, thiếu tự do, đó là đã sống không đúng theo tinh thần chánh pháp.
Nhìn vào một vị khất sĩ sống đời sống phạm hạnh, người ta phải thấy sự có mặt của sự thoải mái, sự thong dong và niềm an lạc.
Nếp sống này đem lại hạnh phúc trong hiện tại mà chắc chắn cũng đem lại hạnh phúc trong tương lai.Sau buổi pháp thoại, nữ cư sĩ Punnalakkhana xin đến viếng Bụt.
Bà là nội trợ của cư sĩ Sudatta Anathapindika, người đã xây dựng tu viện Jetavana để cúng dường giáo đoàn khất sĩ.
Nữ cư sĩ báo tin cho Bụt biết là cư sĩ Sudatta bị ốm đã hơn mười hôm nay, và rất khổ đau vì không đến dự được buổi pháp thoại này.
Bệnh của cư sĩ càng ngày càng tăng chứ không thấy giảm.
Cư sĩ rất sợ sẽ không được nhìn thấy mặt Bụt trước khi qua đời.Ngày hôm sau, Bụt đi thăm cư sĩ Sudatta, cùng đi với người có hai đại đức Sariputta và Ananda.
Được thấy Bụt và hai đại đức, cư sĩ mừng rỡ.
Ông ngồi trên một chiếc ghế dựa, nét mặt xanh xao, Bụt bảo:– Sudatta, suốt đời ông đã sống một cuộc sống có ý nghĩa và có hạnh phúc.
Ông đã làm vơi nỗi khổ của biết bao nhiêu người.
Danh từ Anathapindika mà thiên hạ tặng cho ông là một trong những bằng chứng lớn của sự thành công của ông.Tu viện Jetavana là một bằng chứng lớn khác.
Ông đã đóng góp thật nhiều để pháp âm của đạo giác ngộ được truyền đi khắp chốn.
Ông đã sống theo chánh pháp, đã tạo được hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình và cho rất nhiều người trong xã hội.
Bây giờ ông nên tĩnh dưỡng, tôi sẽ nhờ đại đức Sariputta thỉnh thoảng tới thăm ông và hướng dẫn sự tu học cho ông.
Ông không nên cố gắng để tìm lên tu viện, bởi vì di chuyển như thế sẽ làm cho ông mất sức nhiều quá.Cư sĩ Sudatta chắp tay tạ ơn Bụt.Mười lăm hôm sau, vào giờ pháp thoại, Bụt nói về đời sống người tại gia, về hạnh phúc chân thực mà người cư sĩ có thể thực hiện ngay trong đời sống hiện tại.Bụt ôn lại những nguyên tắc sống “hạnh phúc trong hiện tại, hạnh phúc trong tương lai” mà người đã diễn bày trong kỳ pháp thoại trước, rồi người nói:– Vị khất sĩ sống đời sống phạm hạnh là để có an lạc hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, và nếp sống phạm hạnh ấy chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc trong tương lai, nhưng không phải chỉ người xuất gia mới sống được theo nguyên tắc ấy.Những người cư sĩ sống ở thành thị và trong xóm làng cũng có thể theo nguyên tắc ấy của chánh pháp mà làm cho đời sống càng ngày càng có thêm hạnh phúc.Trước hết là đừng vì ước muốn làm giàu mà chúi đầu vào công việc, bỏ mất cơ hội tạo hạnh phúc cho mình và cho gia đình mình trong giờ phút hiện tại.Hạnh phúc trước hết là sự tỉnh thức.
Một cái nhìn đầy hiểu biết, một nụ cười bao dung, một câu chuyện nói thương yêu, một bữa cơm quây quầy trong đầm ấm và tỉnh thức… đó là hạnh phúc trong hiện tại.Nuôi dưỡng sự tỉnh thức trong hiện tại, ta sẽ tránh không gây khổ đau cho ta và cho những người sống chung quanh ta và bên cạnh ta.
Bằng cái nhìn, bằng lời nói, bằng nụ cười, bằng những cử chỉ săn sóc nhỏ, ta tạo ra hạnh phúc cho ta và cho mọi người ngay trong giây phút hiện tại.
Hạnh phúc này không cần đến giàu sang và danh vọng.Bụt kể cho đại chúng nghe câu chuyện của Sigala, một người gia chủ trẻ tuổi mà Bụt gặp ở thành phố Rajagaha nhiều năm về