Edit + Beta: Cam Cam Một Màu Xanh
...........
Đêm nay quá gấp gáp, Tiêu Khản đã gần như chạy hết Đôn Hoàng, từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam.
Mãi cho tới lúc xe chạy đến Mã Mê Thỏ, đã có thể nhìn thấy bầu trời trắng xanh lấp lánh trên đỉnh non xa.
Chiều cao của bãi lau sậy tương đương những gì Hồ Kim Thủy mô tả, xe chạy qua đó chỉ đành miễn cưỡng để lộ một đoạn giá để hành lý.
Đầu xe chật vật vượt qua những thân sậy rậm rạp, chùm đèn pha của xe bị cắt thành từng mảnh, tất cả các thiết bị liên lạc hàng ngày đều mất tín hiệu.
Nếu không có anh ta dẫn đường, hai năm rõ mười chiếc xe sẽ chạy sai hướng.
Không chỉ vậy, lượng nước sông lại dồi dào vào hè, nơi nơi trong đám bụi cả là từng vũng nước mặn lớn nhỏ.
Thân xe bấp bênh hết bên này tới bên kia, đong đưa dữ dội.
Hồi nãy xe ngã đã là làm Tiêu Khản thấy khó chịu, sau một đợt va chạm nữa, bụng cô đã quặn lên và rồi không dằn lòng nổi, cô muốn hạ cửa sổ xuống, định ói ra ngoài.
“Mở cửa sổ khác!”
Hồ Kim Thủy la lớn cản cô.
Lâm Tầm Bạch rút ra một túi nilon đưa cho cô, thuận tiện giải thích cơn cớ không thể mở cửa sổ này: “Muỗi vằn rất hung dữ, có nhiều nhất ở chỗ thực vật và nước.”
Tiêu Khản nhận túi, nôn ra mấy ngụm nước vàng chua.
Đám lau sậy phía trước gãy rạp, có vài bụi bị đè gãy tận gốc như thể như vừa bị bánh xe cán qua không lâu.
Hồ Kim Thủy tiếp tục lái vô lăng và bảo: “Xem ra Chim Yến Nhỏ cũng tới Mã Mê Thỏ, không biết cô ấy có tìm ra đường không…”
Lâm Tầm Bạch trấn an: “Ngay cả Mương Tiểu Tuyền và động Đèn Ma còn từng đi qua, chắc chắn sẽ biết đường…”
Nhưng điều mà Hồ Kim Thủy thật sự lo lắng không phải là việc này.
“Kẻ trộm tranh là Sa Vệ, coi như ông Triệu… Không, Xuân Sinh là người trung gian, xem chừng giữa ông ta và Chim Yến Nhỏ không liên quan gì nhau.
Chim Yến Nhỏ sẽ bình an vô sự chứ?”
Nghĩ đến Xuân Sinh giết nhiều người cỡ này, trong lòng Hồ Kim Thủy rung rẩy từng đợt.
Tiêu Khản rút ra một tờ khăn lau khóe miệng.
“Dù gì Chim Yến sẽ không tìm ông ta để ôn lại chuyện xưa.”
(P1)
Ngay từ khi còn ở Thành cổ Lâu Lan, cô đã suy nghĩ về hai vấn đề.
Thứ nhất, tại sao Sa Vệ không giao tranh và lấy tiền sau khi đã trộm tranh.
Thứ hai, hắn sa lưới bị bắt, do đâu không khai Xuân Sinh.
Bây giờ nghĩ lại, hai vấn đề này vẫn là mấu chốt như cũ.
Và cô e rằng chờ bọn cô tìm được Chim Yến mới biết câu trả lời.
Thủy triều đêm rút dần, tầm nhìn bên ngoài cửa sổ xe trở nên rõ ràng và mở rộng.
Tại trung tâm khu không người bạt ngàn, có một cụm Nhã Đan dạng đồi cao chót vót và rộng rãi và trên đó có một gò đất tròn.
Khác vời những mô đất bị sức gió bào mòn hình thành trong tự nhiên, trên bề mặt gò đất có từng rãnh cắt vắt ngang, tương tự Vạn Lý Trường Thành thời Hán.
“Đó là một cột báo tin khói lửa lớn thời Hán, cũng là ký hiệu cho Mã Mê Thỏ.” Hồ Kim Thủy cho hay, “Trên thực tế, có rất nhiều tàn tích về cột báo tin khói lửa trong bụi lau sậy mỗi tội không cao tới thế; toàn bộ bị cỏ che khuất.”
Tiêu Khản mở cửa sổ trời ra, thò nửa người ra ngoài.
Vòm trời bình minh tựa một tấm mành lụa trắng, mềm mại bao bọc toàn bộ vùng hoang dã.
Cô thật sự nhìn thấy rải rác vài cột báo tin khói lửa trong đám cỏ cây rộng khắp.
“Nghe nói khai quật được kha khá thẻ tre thời Hán trong cột báo tin khói lửa, còn nói gần đó có thể có Đại Chiên gì đó…”
“Chướng Hầu Đại Chiên Đô.” Lâm Tầm Bạch tiếp lời, “Tôi cũng từng nghe qua.”
“Đúng đúng, chính là Chướng Hầu Đại Chiên Đô!” Hồ Kim Thủy cười ha hả, “Tên quá khó đọc, không dễ nhớ!”
Lâm Tầm Bạch giải thích chi tiết: “Quan trưởng bảo vệ Vạn Lý Trường Thành ở Ngọc Môn Quan tên là Đô úy Ngọc Môn.
Đô úy bố trí hai Hầu quan, Hầu quan Ngọc Môn quản lý đoạn Đông, Hầu quan Đại Chiên Đô quản lý đoạn Tây và cột báo tin khói lửa bên ngoài Vạn Lý Trường Thành, còn thành nhỏ nơi Hầu quan đóng quân gọi là ‘chướng’, cho nên mới có tên Chướng Hầu Đại Chiên Đô.”
“Thế tòa thành nhỏ kia đâu?”
Tiêu Khản dõi mắt trông vời về phương xa, loáng thoáng nhìn thấy một đường thẳng tắp với dấu vết nhân tạo ở phía Đông Bắc, hẳn là dọc theo cực Tây của Vạn Lý Trường Thành thời Hán.
Ngoài ra cô không còn thấy bất kỳ kiến trúc nào khác có thể được gọi là “thành”.
“Đã mất từ đời tám hoánh.” Hồ Kim Thủy thản nhiên trả lời, “Thành nhỏ thời Hán đã cách nay hơn 2,000 năm!”
(P2)
Cô hỏi lại một cách sắc bén: “Tối thiểu thành nhỏ sẽ cao hơn Vạn Lý Trường Thành, và lớn hơn cột báo tin khói lửa.
Vì đâu Vạn Lý Trường Thành và cột báo tin khói lửa còn để lại tàn tích còn thành nhỏ thì không?”
Cùng một môi trường địa lý, cùng những thay đổi lịch sử hệt nhau, đâu có lý gì tạo ra hai kết quả khác nhau.
Hồ Kim Thủy nhất thời nghẹn ắng.
Lâm Tầm Bạch ngẫm nghĩ một phen: “Tôi nhớ còn có một cách nói nữa.”
“Ồ?”
“Bảo rằng nhân năm đó đến Đôn Hoàng, Stein tiến hành khai quật dọc theo Vạn Lý Trường Thành.
Ông ta đặt tên thành Đại Phương Bàn ở phía Đông thành Tiểu Phương Bàn tại Ngọc Môn Quan là thành Hà Thương.
Trải qua hơn tám mươi năm sau, có học giả phát hiện thành Đại Phương Bàn không phải là thành Hà Thương, mà là Xương An Thương thời Tây Hán.”
Tiêu Khản nghe ra đôi chỗ kỳ lạ: “Vậy Thành Hà Thương thật thì sao?”
Lâm Tầm Bạch giơ tay chỉ về phía trước.
Một hồ nước trong vắt đột nhiên xuất hiện trong bãi lau sậy.
Càng đi về phía Bắc, càng xuất hiện nhiều hồ nước với kích thước và hình dạng bất đồng chực những giọt nước mắt rơi giữa miền hoang dã.
Thành Hà Thương, đúng như tên gọi, là một nhà kho được xây dựng bên sông.
Mặc dù đây là lần đầu tiên anh tới, nhưng khi quan sát xung quanh rồi cẩn thận nhớ lại, anh thấy nó quá đỗi thích hợp để làm một thành trì chứa đồ dự trữ quân sự hơn cả.
Bởi lẽ xung quanh thành Đại Phương Bàn không mọc lấy một cọng cỏ, trong khi khu vực này thuộc địa hình lòng chảo, có nước có cỏ, nằm trong phạm vi Vạn Lý Trường Thành, xung quanh lại có cột báo tin khói lửa.
“Hướng dẫn viên Hồ nói khi lượng nước sông Sơ Lặc dồi dào, có thể đi đường thủy vận chuyển lương thực cho quân đội biên cương, như vậy những hồ nước này từng là một hồ lớn!”
“Chà!”
Hồ Kim Thủy thổi chòm râu, đi vòng quanh hồ rồi lái về trước.
“Thành Hà Thương có thể lớn hơn thành nhỏ.
Tiêu Khản nói rồi đấy, nếu thật sự có thành trì thì sao chả để lại chút dấu vết nào?”
Anh ta cảm thấy suy đoán này còn không bằng cái trước nữa.
Bấy giờ Lâm Tầm Bạch đưa ra bằng chứng: “Vào giữa thời Tây Hán, Lý Quảng Lợi từng hai lần chinh phạt Đại Uyên.
Sau thất bại lần đầu tiên, ông ta bị Hán Vũ Đế giáng chức ở bên ngoài Ngọc Môn Quan, mãi đến lúc thành công vào lần thứ hai mới thuận lợi trở về triều.”
(P3)
“Ý của anh là thành Hà Thương là một kho thóc được chuyên môn xây dựng để chinh phạt Đại Uyên, chiến tranh chấm dứt bèn vứt đi không cần nữa?”
Lâm Tầm Bạch lắc đầu.
Rõ ràng trên xe chỉ có ba người, vậy mà anh còn cố tình hạ giọng, tỏ vẻ nghiêm túc.
“Còn nhớ nguồn gốc của Thành Ma Quỷ mà tôi đã đề cập lần trước không?”
Tiêu Khản nhớ rõ.
Chính là cô công chúa đi kết hôn thắm tình hòa hiếu của nhà Đường bị bão cát chôn vùi ở Bãi Đồ Cổ.
Đợi đến lần kết hôn thắm tình hòa hiếu thứ hai, sứ đoàn đón dâu đổi đường sang Ngọc Môn Quan, kết quả là bị bọn cướp phục kích bên ngoài cửa ải, cuối cùng một đám cô hồn dã quỷ tràn vào Thành Ma Quỷ, phát ra tiếng quỷ khóc sói gào.
Chẳng lẽ câu chuyện đó…
Không phải do anh chế?
Lâm Tầm Bạch gằn từng chữ: “Mãi cho đến nhà Đường thành Hà Thương mới hoang phế, nguyên nhân chính vì lần kết hôn thắm tình hòa hiếu nọ.
Bọn cướp đuổi theo sứ đoàn bên ngoài Ngọc Môn Quan, sứ đoàn chạy trốn vào trong thành Hà Thương cầu viện.
Còn binh lính trong thành sợ lương thực bị cướp, chặn cửa không mở, dẫn đến toàn bộ sứ đoàn đón dâu bị tàn sát gần như bằng sạch.”
“Công chúa nhỏ đi kết hôn khi mới đôi tám, mang theo nỗi căm hờn cực sâu chết đi biến thành lệ quỷ áo xanh, đi vào thành Hà Thương…
Hồ Kim Thủy vừa lái xe vừa nghe, vừa sợ hãi vừa tò mò.
“Sau đó thì sao?”
“Sau đó…”
Lâm Tầm Bạch chuyển chủ đề.
“Cô công chúa nhỏ mang theo sức bạt núi khí ngút trời, suốt đêm chuyển thành Hà Thương đến Thái Hành Sơn, nghe nói nơi đó có một ông cụ tên là Ngu Công, ngày thường yêu thích...”
“...”
Tiêu Khản và Hồ Kim Thủy đều câm lặng.
Nhất thời không biết có nên thừa nhận họ đã thực sự tin vào nó trong giây lát không!
(P4)
Lâm Tầm Bạch giơ tay cười làm lành với bọn họ: “Tôi thấy mọi người lo âu nên muốn xoa dịu bầu không khí thôi.
Trước tiên tôi xin khẳng định nửa đầu được ghi chép lại, còn nửa sau do tôi nặn ra.”
Tại sao một thành trì biến mất không để lại dấu vết là vấn đề cần các nhà khảo cổ học nghiên cứu, làm sao anh biết cho được.
Hồ Kim Thủy đạp phanh gấp.
Ót Lâm Tầm Bạch đụng vào lưng ghế phụ lái, đau đến mức hít một hơi sâu.
“Úi, hướng dẫn viên Hồ, sao anh lại dùng việc công báo thù riêng…”
Hồ Kim Thủy quay đầu, dùng giọng điệu trịnh trọng trả lời bằng hai từ: “Đến rồi.”
Lâm Tầm Bạch theo bản năng nhìn ra bên ngoài.
Tiêu Khản đẩy cửa xuống xe.
Đúng vậy, họ đã lái xe ra khỏi Mã Mê Thỏ, đi tới khe núi bị gió bào mòn