Thành Kỷ Nam, nơi người Sở hồn khiên mộng nhiễu (1).
《Sách Chiến Quốc – Sách Sở》 từng ghi lại, “Sở Vương dạo chơi ở Vân Mộng, hàng nghìn xe ngựa đi theo, cờ xí che rợp bầu trời.
Lửa rừng cháy lên như vầng hồng, đàm hổ gầm lên như sấm sét”, oai phong biết bao, thịnh cảnh biết bao.
Dọc theo đường đi Địch Kỳ Dã nghe Khương Dương kể về Kinh Sở, chỉ cảm thấy hắn dùng thật nhiều thật nhiều từ ngữ ca ngợi, tới khi đến thành Kỷ Nam tự mình từ trên cao nhìn xuống, mới thấy quả thực phồn hoa hùng vĩ, khiến lòng người kính sợ.
Thành Kỷ Nam, phía đông đối diện Vân Mộng, nhánh sông vòng quanh thành, thành lâu cao lớn màu than chì dưới nắng ban mai như phủ lên một tầng ánh kim, trong thành đài rộng gác cao, hiên đình xen kẽ, tử khí đông lai (2), biển mây dập dềnh, sương mù vờn quanh, không giống thành trì chốn phàm trần, mà tựa như một tinh cung.
Đứng trên thành lâu nhìn về hướng đông, Vân Mộng Trạch (3) sóng nước lăn tăn trải rộng, ngoài đại doanh thuỷ quân, hàng trăm tàu chiến nối liền nhau, thuyền lớn nhiều vô số.
Đó là thuỷ sư (4) vô địch do một tay Cố Liệt tạo nên.
Ngoài thành Kỷ Nam, bá tánh đứng chật kín đường phố, ngõ hẻm để đón chào, hô to Sở Vương.
Địch Kỳ Dã nhìn thấy Kỷ Nam, chỉ liếc mắt một cái đã biết, nơi này không còn là mảnh đất tuần săn của Sở Vương thời Chiến Quốc, cũng không còn là mảnh đất thụ phong của Sở Vương, mà là một thành Kỷ Nam đã khắc thật sâu dấu ấn của Sở Vương Cố Liệt.
Lòng hắn dâng lên nỗi vui mừng.
Đại quân trở về thành, còn đánh thắng một chiến dịch lớn như hạ Thục Châu, tất nhiên cần phải khai đàn tế tổ, an ủi Sở Vương linh thiêng trên trời.
Sở Vương Cung, trung tâm thành Kỷ Nam, chẳng cần nhiều lời về sự hoa mỹ, nét đẹp lặng yên của nó nữa, điểm đặc biệt đó là ở đối diện cung điện, có một toà đài cao, trường giai (5) được dựng đối xứng, làm từ gỗ ngô đồng, cao ngất trong mây, tên là Tê Phượng Đài.
Ngày ấy trở về thành, sau giờ ngọ, mặt trời treo cao, một đạo sĩ bấm giờ lành, Cố Liệt lên đài tế tổ.
Loại cổ lễ này, Địch Kỳ Dã chỉ mới nhìn thấy trong sách, hơn nữa hắn vẫn luôn trốn tránh Cố Liệt vì xấu hổ hôm uống sau, nên hoàn toàn không hiểu biết quy trình, đứng giữa chúng tướng quan sát đầy mới lạ.
Bọn họ đứng hai bên sườn của bậc thang dẫn lên Tê Phượng Đài.
Sở Vương Cố Lân Sanh đã mất, Sở ca ai điếu.
Giờ lành đã đến, sanh tiêu động, đào huân lên (6), khúc ca bi ai của người Sở như tiếng quỷ kêu khóc giữa đêm đen, Sở Vu đeo mặt nạ Na (7) nhảy khúc tế vũ theo tiếng trống quân, thân hình như điên như cuồng, lại tựa như du hồn.
Một màn biểu diễn này quả thực như đang ở hoàng tuyền âm phủ, rồi lại rõ ràng đang phát sinh dưới ánh mặt trời sáng ngời rực rỡ, túc mục quỷ quái, tất cả người Sở đều ngập nước mắt.
Ngay cả Địch Kỳ Dã chỉ là người ngoài vậy mà trái tim cũng không tự chủ rung lên theo tiếng trống, bi thương khó hiểu.
Đột nhiên, tiếng nhạc dừng, một tiếng trống mạnh, Sở Vu quỳ rạp xuống mặt đất mà bái, Cố Liệt bước ra khỏi cửa cung, đi về phía Tê Phượng Đài.
Hắn mặc một bộ đồ hiến tế đơn giản màu đen, càng thêm cao gầy so với vương phục ngày thường, mái tóc dài đen nhánh như màn đêm nay buộc cao thành đuôi ngựa, phỏng theo dáng vẻ tế tổ của Sở Vương năm xưa.
Nhưng khác với Sở Vương chính là, hắn cởi ra áo trên buộc ở bên hông, lộ ra nửa người.
Dân chúng người Sở đứng hai bên đường dần dần quỳ xuống theo bước chân hắn.
Mãi đến khi Cố Liệt bước lên trường giai, đi ngang qua Địch Kỳ Dã, hắn mới hiểu vì sao Cố Liệt không mặc chỉnh tề.
Đó là một con phượng hoàng vươn cánh từ trong biển lửa, văn chương màu đỏ sậm xăm kín toàn bộ vai của Cố Liệt, màu đỏ tươi ấy, phảng phất như có thể tràn ra máu bất cứ lúc nào.
Nó đỏ đến quá mức sinh động và nhiệt liệt, thậm chí khiến người ta có ảo giác nó rằng chẳng phải một hình xăm bình thường, mà như thể gắn liền với Cố Liệt cùng sinh ra.
Người Sở tôn sùng mà nhìn chăm chú Sở Vương của họ, nhìn chăm chú sát thần Hoả Phượng của họ, ánh mắt của họ nóng bỏng như ngọn lửa, bao phủ cả người Cố Liệt trong một biển lửa đốt cháy lên từ kiêu ngạo và nợ máu của người Sở.
Địch Kỳ Dã mở to đôi mắt nhìn theo Cố Liệt dẫm lên bậc thang, từng bước lên đài, tầm mắt của người Sở xung quanh, không có một là không cuồng nhiệt, mặc cho ai đều có thể cảm nhận được Sở Vương được người Sở kính yêu đến nhường nào.
Nhưng Địch Kỳ Dã lại không nhịn được cảm thấy, người bọn họ nhìn chỉ là Sở Vương, nào phải Cố Liệt.
Thân ảnh ấy, thật sự cô quạnh.
Hắn nhìn Cố Liệt thực hiện cổ lễ rườm rà, sanh tiêu đào huân lại một lần nữa vang lên, Cố Liệt lạy Sở Vương ba lạy.
Nhìn Lục Dực bước lên đài cao, đưa tro cốt của cha mẹ vào lăng Sở, hoàn thành di nguyện của cha mẹ, một tướng gian như hắn lại thành kính dập đầu chảy máu trước bài vị của Sở Vương.
Lục Dực là một người khi cần ngay thẳng sẽ ngay thẳng, khi cần đưa đẩy nhất định sẽ đưa đẩy.
Một người như vậy, tất nhiên không phải kẻ thật sự ngay thẳng, không có tâm cơ, ngược lại, chính bởi vì cực kỳ thông minh linh hoạt, cực kỳ mẫn cảm trước thời thế, mới có thể biết khi nào nên nói thẳng, khi nào nên thận trọng.
Vậy nên Lục Dực là tướng gian.
Nếu dùng lẽ thường để phỏng đoán, khi một người như vậy thể hiện sự đồng cảm đối với người Sở, có lẽ có một nửa là chạy theo huyết mạch, một nửa là lý do dễ nghe mà thôi.
Cho tới khi tận mắt nhìn thấy Lục Dực ở trước bài vị của Sở Vương, dập đầu đến trán nhuộm máu đỏ.
Địch Kỳ Dã rũ mắt suy nghĩ sâu xa, dường như đã cảm nhận được, lại chẳng thế hoàn toàn hiểu thấu đáo.
Không đợi Địch Kỳ Dã vuốt thuận suy nghĩ, chợt nghe người hầu truyền tầng tầng tiếng gọi: “Truyền Địch Kỳ Dã.”
Người Sở tế tổ, sao lại gọi mình làm gì?
Hắn nhìn trái nhìn phải, Khương Dương đang liều mạng nháy mắt ra hiệu cho hắn, vì thế hắn dựa theo lễ nghi mà Khương Dương dạy hắn lúc ở Thục Châu, chậm rãi bước ra khỏi hàng, hướng về phía Cố Liệt trên đài cao thi lễ, theo bậc thang phía bên phải, từng bước đi lên đài cao.
Cố Liệt đăng cao tế tổ (8), một là vì an ủi Sở Vương đã đánh hạ Thục Châu, hai là để phong Lục Dực, Địch Kỳ Dã làm tướng.
Kiếp trước Cố Liệt cũng làm như thế, dù sao Địch Kỳ Dã có bản lĩnh thu phục quân tâm, nên Cố Liệt cũng lười đổi, lấy bầu vẽ gáo, chỉ đơn giản hoá nghi thức phong tướng thêm vài lần, tận lực bớt kéo thêm phê bình cho Địch Kỳ Dã một chút.
Đại tướng quân của Sở quân cũng không có phong hào hoa lệ gì, Cố Liệt không thích bày vẽ mấy thứ đó, toàn bộ đều phong thành đại tướng quân.
Ai có thể lãnh bao nhiêu binh, ai có thể đánh được trận nào, trong lòng Cố Liệt rành mạch, đều có sổ sách.
Còn xưng hô chỉ là thứ râu ria, ngay cả năm đoàn vương sư chủ lực (9), hắn cũng dùng số đếm đệ nhất quân, đệ nhị quân để đặt tên, người ngoài căn bản không phân rõ được đâu là thuỷ sư, đâu là lục chiến.
Lục Dực dẫn theo quân tới gia nhập, hơn nữa sớm đã sửa biên chế quân đội theo chế độ của Sở, phong đại tướng