*(*) tiết sâu nở, là một trong 24 tiết của năm, vào ngày 5, 6 hoặc 7 tháng 3, khoảng giữa xuân.“Gọi ta đi.” Đối phương cầm lấy sợi dây rối của hắn khẽ nói. Văn Thời hơi rũ mắt, mấp máy môi: “Trần Bất Đáo.”Editor: Cúc kiên cường
Beta: Erale
Thời gian đó Văn Thời thực sự rất bám người.
Nhưng hắn chẳng nói năng gì, cũng không quấn lấy Trần Bất Đáo đòi hỏi, không đòi ôm, không đòi dắt tay, cách bám người của hắn chỉ là yên lặng lẽo đẽo theo sau.
Như thể nơi nào có Trần Bất Đáo mới có thể khiến Văn Thời yên tâm ở lại.
Mặc dù cái tên Văn Thời là do Trần Bất Đáo đặt, nhưng hắn chưa từng gọi tên đó một lần nào, chỉ toàn thích đặt biệt danh cho Văn Thời.
Nếu như Văn Thời rầu rĩ không chịu lên tiếng, Trần Bất Đáo liền gọi hắn là “nhóc câm điếc”. Nếu Văn Thời giống như một cục tuyết lẽo đẽo theo mình đi khắp nơi, Trần Bất Đáo liền gọi hắn là “cái đuôi nhỏ”.
Trẻ nhỏ không nhớ được lâu, những chuyện không vui chỉ cần không nhắc tới thì sẽ nhanh chóng quên béng mất. Lúc ban đầu Văn Thời cũng như thế —
Trần Bất Đáo cho hắn ngâm thuốc mấy ngày, sương đen trên tay dần bị giấu trở về, có thể ngủ một giấc yên ổn đến hừng đông. Hắn liền cảm thấy mấy thứ đó cũng chẳng phải chuyện gì to tát.
Thật ra đó là do hắn khỏi cảm lạnh, tinh thần ổn định. Thế nhưng hắn không biết, còn tưởng rằng thể chất của mình đã thay đổi, mấy thứ ẩn núp trong cơ thể cũng bớt dần đi.
Năm đó có lẽ là năm Văn Thời ít gánh nặng nhất, thậm chí hắn còn dẫn theo cả đại bàng Kim Sí xuống núi chơi.
Nhưng hắn chơi đùa cũng rất kiềm chế và yên tĩnh.
Người dưới chân núi vẫn gọi hắn là ác quỷ, mấy đứa nhỏ khi nhìn thấy hắn sẽ đứng xa xa cầm đá ném hoặc lập tức quay đầu bỏ chạy, như thể chỉ cần đứng đó một lúc là sẽ bị hắn lột da ăn thịt vậy.
Cho nên trước giờ Văn Thời chẳng bao giờ đi đến những chỗ đông người, mà chỉ chọn đến những nơi vắng người như khe núi, rừng cây, bờ suối. Về sau những điều ấy đã trở thành thói quen của hắn.
Có thể do hắn không hoạt bát nhanh nhẹn cho lắm nên rất thích những thứ còn sống và cử động được. Đỉnh núi Tùng Vân quá lạnh không có nhiều sinh vật sống. Nên khi hắn bắt gặp một hang thỏ ở dưới chân núi, vài con rùa hay đôi cá đang tung tăng bơi lội đều có thể đứng ngắm nhìn rất lâu.
Khi hắn chơi đùa một mình trong khu rừng kia thường hay gặp một bà lão hái thuốc. Mối quan hệ giữa hắn và bà lão cũng khá sâu xa, lúc trước hắn được Trần Bất Đáo mang về nuôi dưới chân núi, chính là ở nhà của bà lão ấy.
Thời gian nuôi nấng không lâu, cộng thêm trẻ nhỏ trí nhớ không tốt nên tình cảm không mấy sâu đậm. Nhưng bà lão là người duy nhất trong đám người dưới chân núi đối tốt với hắn.
Mỗi lần nhìn thấy Văn Thời trong rừng, bà ấy luôn nhét cho hắn một ít đồ. Có khi là hoa quả đã rửa sạch, có khi lại là chút bánh ngọt hấp ở nhà.
Trái cây thường bị chín mềm nhũn, bánh thì hơi khô, đối với khẩu vị của một đứa trẻ thì không ngon cho lắm. Nhưng Văn Thời luôn ngồi khoanh chân ăn hết sạch những món đó ngay trước mặt bà lão. Không lâu sau còn học được cách đáp lễ.
Cuối đông đầu xuân năm thứ hai, dưới chân núi làm lễ cúng bái tổ tiên, đón giao thừa và trừ tà cầu phúc tưng bừng rộn ràng suốt mấy ngày liền. Khoảng thời gian đó Văn Thời hạn chế xuống núi, chỉ trừ khi Trần Bất Đáo dẫn hắn ra ngoài, còn lại hắn không hề xuống núi một mình.
Đợi đến khi kết thúc chuỗi ngày lễ, Văn Thời lại tới rừng cây dưới chân núi, nhưng liên tiếp mấy ngày đều không gặp được bà lão hái thuốc.
Hắn hơi lo lắng bèn ôm theo đại bàng Kim Sí lần mò tới ven thôn, trên đường còn không quên bóp mỏ chim không cho nó kêu. Sau đó, hắn thấy cờ dẫn hồn màu trắng mắc trên sào trúc và tiền giấy rải đầy đất.
Họ hàng thân thích trong thôn đốt giấy để tang, Văn Thời láng máng nghe thấy bọn họ bảo rằng bà cụ mất rồi. Sau khi ăn xong bữa cơm đoàn viên, đón đêm giao thừa, bà ra đi trong lúc say giấc, không bệnh không đau đớn, cứ thế hết thọ chết già.
Nhiều đứa trẻ còn nhỏ không hiểu ý nghĩa của việc qua đời. Chỉ cảm thấy đông người thì rất vui, chúng được người lớn trong nhà dẫn đến dập đầu vái lạy, sau đó quay ra nô đùa ầm ĩ cùng nhau.
Nhưng Văn Thời hiểu điều đó có nghĩa là gì. Hắn biết rằng từ nay về sau, bất kể là xuân hạ thu đông, khi hắn vào rừng đều sẽ không gặp được người đeo cái sọt, cười híp mắt nhét cho hắn trái cây cùng bánh ngọt nữa.
Đêm hôm ấy Văn Thời lại mơ thấy giấc mơ kia.
Mỗi tội lần này trong mơ không chỉ có mỗi tòa thành quỷ với núi thây biển máu nữa, mà còn nhiều thêm một bà lão hái thuốc, bước chân tập tễnh đi dọc theo con đường dài tối đen, gọi thế nào cũng không quay đầu.
Những tiếng quỷ khóc kia giống như những lưỡi dao mũi kim cứa vào trong đầu hắn, ghim chọc thật mạnh khiến đầu hắn đau như muốn nứt toác, nhưng không tránh thoát được.
Văn Thời trong mơ giằng co cùng những thứ đó rất lâu.
Rốt cục đến lúc mở được mắt ra, hắn phát hiện mình không ở trên giường mà đang đứng trước cửa phòng Trần Bất Đáo, hai bàn tay tràn đầy sương đen cuồn cuộn như những lưỡi đao đang cố chui vào trong phòng.
Hắn sững sờ hồi lâu mới rùng mình quay đầu bỏ chạy, sau đó không dám nhắm mắt nữa.
Văn Thời biết đại bàng Kim Sí không sợ sương đen. Hắn không trở về phòng mà ngồi khoanh chân trên mỏm đá ở đài luyện công hì hục nhổ lông xù trên đầu đại bàng Kim Sí, trông thấy nó bị sương đen bủa vây mà vẫn tràn đầy sức sống, hắn mới cảm thấy dễ chịu hơn một xíu.
Không biết bản thân đã ngồi bao lâu, mãi đến khi nghe thấy tiếng sột soạt đằng sau lưng, là tiếng vạt áo quét nhẹ qua cành tùng phủ tuyết trắng.
Hắn biết là Trần Bất Đáo tới, nhưng vì bản thân đang buồn bực nên không chịu quay đầu.
Bởi chỉ cần nhớ đến chuyện đêm qua mình đứng trước cửa phòng Trần Bất Đáo một cách quỷ dị, hắn lập tức cảm nhận được cơn khó chịu không biết từ đâu ập đến. Lúc ấy hắn không hiểu nổi vì sao bản thân lại khó chịu, mãi sau này mới hiểu được đó là một loại sợ hãi.
Sợ rằng một ngày nào đó sẽ mất kiểm soát mà làm hại đến người mình không muốn làm tổn thương nhất. Mặc dù hắn biết, chỉ cần Trần Bất Đáo có chút đề phòng thì sẽ không thể bị hắn làm hại.
“Sao cái đuôi của ta lại bị rơi ở chỗ này thế nhỉ?” Trần Bất Đáo cúi người phía sau hắn, dùng lòng bàn tay nâng cằm hắn để hắn ngẩng đầu lên.
Có thể là do mắt của Văn Thời quá đỏ làm Trần Bất Đáo sửng sốt một lúc mới giúp hắn lau đi mấy giọt nước mắt đọng trên cằm rồi xoay người hắn lại.
Văn Thời duỗi một tay ra nói: “Những thứ đó lại xuất hiện.”
Trần Bất Đáo gật nhẹ đầu: “Thấy rồi.”
Văn Thời cứ nghĩ rằng hắn sẽ hỏi “Chuyện gì xảy ra thế”, nhưng cuối cùng lại nghe thấy Trần Bất Đáo nói: “Có đau không?”
Thật ra rất đau, đau lắm, là loại đau đớn chui vào trong đầu, xuyên qua trái tim, lan khắp cơ thể, bám rịt vào linh tướng, làm thế nào cũng không thoát khỏi nỗi đau ấy.
Nhưng có lẽ là do hắn đã tỉnh từ lâu, lúc Trần Bất Đáo hỏi đến, hắn lại cảm thấy vẫn ổn. Thế là lắc đầu khẽ nói: “Không đau.”
Trần Bất Đáo cúi xuống nhìn đỉnh đầu hắn, một lúc sau mới nói: “Mới tí tuổi đã học được cách lừa dối người rồi.”
Văn Thời hơi nhíu mày, ngửa mặt lên hỏi: “Sao ông biết là tôi lừa ông.”
Trần Bất Đáo: “Bởi vì ta là sư phụ.”
Hắn ngồi xuống bệ đá, Văn Thời nhìn đám sương đen trên người mình rồi lặng lẽ nhích sang bên cạnh. Vốn nghĩ rằng bản thân di chuyển rất cẩn thận thì sẽ không bị chú ý, nhưng thật ra tất cả động tác của hắn đều lọt vào trong mắt Trần Bất Đáo.
Đối phương im lặng hồi lâu mới nói: “Cho con xem một thứ.”
Văn Thời vẫn giữ nguyên khoảng cách, tròn mắt tò mò nhìn hắn.
Trần Bất Đáo xòe lòng bàn tay về phía Văn Thời. Bàn tay kia vừa sạch sẽ vừa ấm áp, đẹp hơn bất kỳ bàn tay nào hắn từng nhìn thấy. Hắn nhìn chằm chằm chốc lát, nhịn không được giấu bàn tay đầy sương đen của mình ra sau lưng.
Kết quả vừa giấu kĩ lại nhìn thấy trên bàn tay không nhiễm một chút bụi bẩn của Trần Bất Đáo chậm rãi tràn ra một tầng sương đen giống hệt của mình, cuồn cuộn không ngừng…
Văn Thời ngạc nhiên đến quên cả nói chuyện.
Trần Bất Đáo giải thích rằng năm đó chiến tranh và thiên tai triền miên, hắn đi qua rất nhiều nơi, hầu như mỗi một nơi đều hình thành lồng bởi hàng chục nghìn người.
Những oán hận và sát khí đó dường như không thể tan biến, chỉ có thể tạm khống chế trước rồi từ từ giải quyết.
Trần Bất Đáo khép ngón tay, đám sương đen kia lập tức nghe lời biến mất, không hề có khí thế giương nanh múa vuốt. Hắn nói tiếp: “Vậy nên con xem, ta cũng giống như con.”
Từ ngày hôm ấy trở đi Văn Thời biết được, hóa ra trên thế giới này không chỉ có mình hắn bị như thế, mà còn có cả Trần Bất Đáo.
Đáng lẽ thứ này sẽ là một tâm bệnh, lại chợt biến thành một loại liên hệ bí mật, ngoại trừ hai người bọn họ thì không ai hay biết.
“Vậy sao của ông lại không hung dữ?” Văn Thời hỏi
“Bởi vì tâm kiên định.” Trần Bất Đáo nói.
Sở dĩ người bình thường có những đám sương đen dày đặc, giải không được mà tránh cũng không xong đều là do oán hận ghen tị, thất tình lục dục, yêu hận buồn vui và quá nhiều lo lắng vấn vương.
Trần Bất Đáo cũng đã gặp rất nhiều người từng trải qua cảnh núi thây biển máu giống như Văn Thời. Hắn đưa vô số người sạch sẽ rời khỏi trần thế, cho nên những duyên nợ cõi trần mà họ để lại cho hắn còn nhiều hơn Văn Thời rất nhiều.
Những thứ đó không thể tan biến trong khoảng thời gian ngắn, chúng sẽ tích tụ lại ẩn nấp trong cơ thể.
Khi tâm trí kiên định, chúng sẽ yên tĩnh an ổn như thể chỉ tìm một nơi ký gửi mà thôi, thậm chí còn không để lộ dấu vết. Nhưng chỉ cần hơi xúc động, để lộ một kẽ hở là chúng sẽ điên cuồng trỗi dậy.
Đó là thất tình lục dục mạnh mẽ nhất trên thế gian này, đủ để trở thành chấp niệm, dễ dàng ảnh hưởng đến tâm trí của con người. Người buồn khổ sẽ càng thêm đau khổ, người vui vẻ càng thêm vui mừng hỉ hả, ngay cả những người không có cảm xúc cũng sẽ trở nên bồn chồn lo lắng không yên.
Nếu không cẩn thận sẽ bị tâm ma ăn mòn rồi biến thành một người hoàn toàn khác.
Đây cũng là lý do mà Trần Bất Đáo bắt buộc phải tu luyện theo con đường gian khổ nhất. Bởi vì hắn gánh trên lưng quá nhiều duyên nợ cõi trần, chỉ không cẩn thận một chút là sẽ đối mặt với khó khăn cùng cực.
Nhưng lúc đó Trần Bất Đáo không kể những điều này. Chính xác thì hắn chưa bao giờ nhắc đến chúng.
Hắn chỉ đưa tay cho Văn Thời rồi nói: “Đi, dẫn con tới một nơi.”
Đó là lần đầu tiên Văn Thời được dẫn vào lồng, chiếc lồng của bà lão hái thuốc.
Khi ấy Văn Thời mới chỉ luyện tập được vài kiến thức cơ bản, vừa không biết thuật con rối lại vừa không thạo phù chú, trận pháp. Ở trong lồng chẳng làm được trò trống gì, chỉ theo sau chân Trần Bất Đáo.
Tuy nhiên nỗi lo lắng vấn vương của người bình thường sẽ không đến mức long trời lở đất, cái lồng đó rất nhỏ, chẳng tốn bao nhiêu sức là giải xong. Mục đích Trần Bất Đáo dẫn hắn theo là để cho hắn có thể gặp bà lão một lần cuối mà thôi.
Lúc ấy Văn Thời cảm thấy dường như Trần Bất Đáo có thể nhìn thấu mọi suy nghĩ của mình. Rõ ràng hắn không nói gì nhưng Trần Bất Đáo lại biết được tất cả.
Sau khi ra khỏi lồng, Trần Bất Đáo dẫn Văn Thời quay về đỉnh núi, dẫn ra một sợi trần duyên từ ngón tay mình nói: “Bà lão kia để lại cho con một ít đồ. Con muốn cái gì? Con thỏ hay là cá – chim?”
Văn Thời hỏi người đó: “Cái gì có thể sống được mãi?”
Trần Bất Đáo nói: “Chỉ cần là vật sống thì đều sẽ có hồi kết.”
Văn Thời nghe xong liền giơ con chim trong ngực lên: “Sao ông bảo đại bàng Kim Sí có thể cơ mà.”
Trần Bất Đáo nhíu mày nói: “Thông minh ghê nhỉ.”
Tất nhiên hắn sẽ không biến thứ một bà cụ để lại thành con rối bị người khác điều khiển, cũng càng không chỉ vào đại bàng Kim Sí nói chim nhỏ đã sống lại như trước đây.
Dù sao tiểu đồ đệ bây giờ cũng đã lớn hơn một chút, không dễ bị lừa.
Trần Bất Đáo dẫn sợi trần duyên của bà lão vào trong suối nước trên đỉnh núi, biến nó thành một con cá chép màu đỏ vàng. [1]
[1] Tên khác là cá Koi.Đó là lần đầu tiên Văn Thời thực sự hiểu được ý nghĩa tồn tại của phán quan —— chịu trách nhiệm đưa tiễn những người đã khuất, giúp họ lưu lại chút gì đó ở mảnh đất cố hương này.
Văn Thời ngồi xổm bên bờ suối hỏi: “Cá có thể sống được bao lâu?”
Trần Bất Đáo nói: “Còn phải xem cách con nuôi nó thế nào. Nếu nuôi tốt nó có thể sống được bảy tám chục năm, bằng với cuộc sống của một người bình thường. Nuôi không tốt thì có khi ngày mai đã lật ngửa bụng, con phải cẩn thận đó.”
Văn Thời nhìn hắn chằm chằm, không rõ vì sao Trần Bất Đáo lại tỏ vẻ nguy hiểm như vậy.
Cạnh suối có một cây mai trắng đang vào đúng mùa hoa nở, trên cây phủ đầy một màu trắng như tuyết. Văn Thời chỉ vào gốc cây rồi nói: “Nó bao nhiêu tuổi rồi?”
Trần Bất Đáo nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Cũng sêm sêm với ta, già lắm rồi.”
Trong mắt Văn Thời lúc ấy, Trần Bất Đáo là một vị thần tiên không già không chết. Thế là hắn ngồi xổm ở cạnh bờ ao ngắm cá bơi lội, miệng lẩm bẩm rằng sau này khi có thể tự giải lồng thì sẽ biến những trần duyên đó thành cây.
Trần Bất Đáo trêu chọc hắn: “Tạo ra nhiều cây như thế thì con định trồng ở đâu? Cây cũng không biết mở miệng nói chuyện.”
Văn Thời: “Vậy cá có biết nói chuyện không?”
Trần Bất Đáo dựa vào cây nhìn hắn, cười nhẹ một tiếng nói: “Đừng nhìn bình thường nó không thích nói chuyện, lúc hung dữ lên thì cũng gần thế đấy.”
Văn Thời cúi đầu xếp mấy núi đá nhỏ trong hồ, chẳng thèm để ý đến Trần Bất Đáo. Xếp một lúc lại cảm thấy cái ao nước này trống trải quá, có mỗi con bé bé tẹo sống một mình.
“Con cứ động một tí là lầm lầm lì lì nửa buổi, giờ lại sợ cá bị buồn chết?” Trần Bất Đáo nhướn mày, cảm thấy có chút mới lạ. Một lát sau mới gật nhẹ đầu, đứng thẳng người rời đi.
Chẳng mấy chốc thấy hắn mang theo thứ gì đó quay về, khom người thả vào trong hồ nói: “Tìm được mấy thứ bầu bạn với nó thay con.”
Văn Thời nhìn kỹ, hóa ra là một con rùa nhỏ.
Hắn ngẩng đầu đấu mắt với Trần Bất Đáo một hồi, sau đó rời đi. Một lát sau cũng xách một con rùa khác tới, quẳng vào trong hồ.
Trần Bất Đáo liếc mắt hỏi: “Con này đại diện ai?”
Văn Thời không thèm ngẩng đầu lên: “Ông.”
Trần Bất Đáo bật cười, nhỏ giọng mắng: “Nghịch thiên làm phản rồi.” [2]
[2] Giải thích xíu: Cụ Trần quẳng con rùa vào hồ thay cho Văn Thời, con rùa còn được hiểu là ‘đồ con rùa rụt cổ’ ‘nhát chết hay trốn tránh’ Văn Thời nghĩ bị kháy nên cũng quẳng một con vào, cụ Trần mới bảo ‘nghịch thiên làm phản rồi’, vì dám lấy con rùa đại diện cho cụ, cụ là người ở bề trên cơ mà =))) Sau này Văn Thời nghĩ lại mới phát hiện bản thân lúc nhỏ không phải là ít nói, nhưng lại cho bọn Bốc Ninh ấn tượng rằng hắn là một người không hay quan tâm đến người khác. Có thể là vì toàn bộ lời nói của hắn đều nói cho Trần Bất Đáo nghe.
Sau ngày hôm ấy, Văn Thời nghiêm túc học tập những kỹ năng của một Phán Quan, không phải vì muốn tìm một nơi dừng chân lâu dài nữa.
Bản thân Trần Bất Đáo thông thạo rất nhiều thứ, cho dù là thuật con rối hay phù chú trận pháp thì hắn cũng đều thuộc hàng tổ tông. Nếu buộc phải chỉ ra nhược điểm thì chắc là quẻ thuật. Bởi vì quẻ thuật thiên về bẩm sinh nhiều hơn.
Bốc Ninh chính là người sinh ra đã thích hợp để học quẻ thuật, chỉ cần vô tình tập trung cao độ là có thể nhìn thấy nhiều thứ hơn so với những người phải dùng đủ loại công cụ từ sáng đến tối.
Nhưng hắn cũng có nhược điểm, thể chất của hắn nằm giữa người và linh vật, linh tướng trời sinh không ổn định. Giống như đổ một lớp nước vào một chiếc đĩa nông, chỉ cần đẩy nhẹ một chút là bị đổ ra ngoài mất một nửa. Nếu vào lồng thì rất dễ bị dụ dỗ mê hoặc, chiếm mất thân thể, hoặc bị nhiễm một vài thứ.
Người không ổn định được chính bản thân như hắn thì hầu như không có duyên với thuật con rối. Cho nên hắn chọn học trận pháp, thêm quẻ thuật tương trợ, mọi việc chỉ cần chiếm lấy trước thời cơ, bày bố đại trận là coi như xong xuôi mọi việc.
Chung Tư chọn học bùa chú bởi vì tính linh hoạt của nó. Đôi khi có thể mượn bùa chú lập trận, có khi mượn bùa chú để hóa thành vật, tương đương với thông thạo ba phần trận pháp và ba phần thuật con rối. Ngày thường không có việc gì còn có thể trấn trạch định linh, xua đuổi tà ma, lúc chơi đùa còn có thể đánh lén khiến người khác trở tay không kịp.
Tính cách hắn hướng ngoại thích chọc ghẹo mọi người, lại có chút liều lĩnh. Trận pháp quẻ thuật quá yên tĩnh, thuật con rối lại vừa phải cứng rắn vừa phải khéo léo, so ra thì phù chú vẫn thích hợp với
hắn nhất.
Trang Dã giỏi kết bạn, điểm lớn nhất chính là tính tình phóng khoáng, tuổi còn trẻ đã học hỏi nhiều thứ một cách vô tội vạ, cái gì cũng làm được nhưng chỉ học cho biết, không tinh thông bất cứ cái nào, trở thành một người tu tạp.
Ngược lại Văn Thời chưa từng bị dao động, từ khi có đại bàng Kim Sí, hắn đã quyết tâm học thuật con rối.
Giới hạn dưới của thuật con rối rất thấp nhưng giới hạn trên lại cực kỳ cao. Bất kì ai mới nhập môn đều có thể nặn ra một hai món đồ chơi nhỏ. Nhưng muốn thành thạo thì cần có nhiều yêu cầu hơn —— phải đủ bình tĩnh, chững chạc, đủ bền bỉ, linh thần phải mạnh mẽ nhưng không được quá cứng nhắc.
Mỗi khi thả một con rối ra thì tương đương với việc chia một phần cơ thể của bản thân ra ngoài, vừa phải áp chế vừa phải khiến nó hòa hợp với linh thần của bản thân.
Loại cảm giác đó thật sự rất khó chịu, muốn thích ứng thì phải dựa vào quá trình luyện tập chăm chỉ.
Cho nên Văn Thời vẫn luôn là người tập luyện chăm chỉ nhất trong đám sư huynh đệ, cho dù bằng mắt thường cũng có thể thấy hắn càng ngày càng trở nên lợi hại.
Hắn luôn là người dậy sớm nhất và cũng là người ngủ muộn nhất. Bọn Bốc Ninh từng không tin vào việc kỳ quái này nên thử liều một lần. Kết quả bọn chúng dậy giờ nào cũng đều trông thấy chim nhỏ của Văn Thời đang đứng trên đài luyện công chải lông.
À không, nó cũng không được coi là chim của Văn Thời, chính xác là đại bàng Kim Sí của Trần Bất Đáo được chuyển cho Văn Thời nuôi dưỡng.
Lúc đại bàng Kim Sí quay đầu sang, bọn chúng luôn cảm thấy vừa hâm mộ vừa xấu hổ áy náy, sau đó ỉu xìu chạy đến bên cạnh sư đệ, gia nhập vào hàng ngũ luyện công.
Ba lần bảy lượt về sau, bọn chúng đành nghiêm túc hỏi Văn Thời: “Rốt cuộc đệ có ngủ hay không?”
Gương mặt Văn Thời tràn đầy thắc mắc nhìn bọn chúng, để lộ hàng chữ chói lòa bên trên: Mấy người đang nói vớ vẩn gì thế?
“Luyện thuật con rối khổ thế cơ à?” Chung Tư gác chân ngồi vắt vẻo trên cành cây, phẩy lá bùa soàn soạt nói: “May mà anh đây không học.”
Thực ra Văn Thời thức khuya dậy sớm như thế cũng không chỉ vì học thuật con rối. Hắn tìm được một quyển sách trong phòng Trần Bất Đáo nên đang thử tẩy linh cho mình.
Trần Bất Đáo không bắt buộc đám đồ đệ phải tu luyện giống như mình, dù sao thì chỉ cần sống trên trần thế, muốn không vấn vương không ngại ngần quá khó khăn. Tẩy linh chỉ là một cách phụ trợ, tương đương với việc cho linh tướng của bản thân mấy nhát dao, dần dà cũng không tốt cho thân thể.
Trần Bất Đáo đã tính toán xong xuôi từ lâu, đợi đến khi Văn Thời tròn hai mươi tuổi, luyện thành thạo thuật con rối và có thể chịu đựng. Hắn sẽ tách mấy trăm ngàn oán sát ra khỏi linh tướng của Văn Thời, tự ôm đồm gánh vác hết tất cả.
Hắn chưa từng nói về điều này, mỗi lần Văn Thời hỏi tới, Trần Bất Đáo đều trình bày một phương pháp khác có vẻ nhẹ nhàng vô hại hơn.
Nhưng thật ra Văn Thời biết và hiểu rõ tất cả.
Hắn không muốn chuyển những thứ trên người mình cho Trần Bất Đáo nên đã lén trộm tẩy linh từ rất sớm. Biết thể nào đại bàng Kim Sí cũng đi mách lẻo, thế là hắn dùng dây điều khiển rối trói gô nó lại.
Về sau hắn dùng đủ các loại phương pháp như canh chim và nói lý thuyết phục (hăm dọa) để con chim kia đứng về phía mình. Hắn không giỏi nói dối, tất cả là nhờ lão Mao chống lưng.
Trần Bất Đáo chẳng ngờ được con rối của mình lại bị hắn rủ rê làm phản, chờ đến khi phát hiện ra thì Văn Thời đã tu luyện nó rất nhiều năm, từ một người tuyết tí hon hở tý co rúm thành một cục biến thành một thiếu niên cao ráo rắn rỏi.
Năm đó Văn Thời 17 tuổi.
Vì thường xuyên tẩy linh, tu theo con đường không vấn vương không ngại ngần. Trông Văn Thời lạnh lùng và xa cách hơn khi còn nhỏ rất nhiều. Trong quá trình trở thành một thiếu niên, hắn đã không còn giống đứa bé năm xưa chọc một chút liền ủ rũ buồn bực, dần dần đã có một chút hương vị sắc bén.
Đến nỗi mấy vị sư huynh vừa muốn trêu đùa lại vừa sợ hắn. Chỉ nhìn vào khí chất thôi thì hắn giống như người thành thục lớn nhất trong cả đám.
Mấy năm đó trần thế luôn hỗn loạn. Trần Bất Đáo rất ít khi ở núi Tùng Vân, Văn Thời thường không gặp được hắn trong một khoảng thời gian.
Tâm tư của thiếu niên mười mấy tuổi là khó suy đoán nhất, vừa nhạy cảm vừa thất thường. Cho dù tu luyện theo phương thức không vấn vương không ngại ngần, Văn Thời vẫn thiếu chút lão luyện, không thể hoàn toàn ngoại lệ được.
Hắn ngoài mặt thì lạnh như băng nhưng không phải không có chút cảm xúc trần tục nào, nhất là đối với Trần Bất Đáo.
Khi hắn còn nhỏ, Trần Bất Đáo có hình dáng như thế kia. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, hắn đã trưởng thành nhưng Trần Bất Đáo vẫn như trước. Bản thân hắn thay đổi nhanh chóng, Trần Bất Đáo lại vẫn luôn lười biếng dựa vào cây mai trắng, cười mắng hắn là kẻ ‘Cậy được chiều chuộng mà sinh kiêu tới mức lật trời làm phản’.
Điều này khiến hắn có cảm giác mâu thuẫn.
Như thể hắn vẫn không ngừng lớn lên trong núi, còn Trần Bất Đáo lại ở trong khe hở của thời gian, thỉnh thoảng một bóng hình vụt qua. Không giống trưởng bối mà giống một vị khách hơn.
Có một lần Trần Bất Đáo đi mấy tháng mới về, đeo chiếc mặt nạ hắn thường mang khi gặp người ngoài, bước giữa con đường núi. Vạt áo trắng như tuyết quét qua đá xanh trên đất tựa như áng mây, sau đó bị lớp áo choàng màu đỏ phất nhẹ qua.
Văn Thời tình cờ đi tới từ bên kia sườn núi, trông thấy người nọ từ xa, hắn chợt dừng bước. Trong nháy mắt ấy, hắn bỗng dưng cảm thấy người ở phía xa xa kia có hơi lạ lẫm.
Đáng nhẽ bọn họ thân nhau lắm, thân thiết hơn bất cứ ai trên thế gian này. Bọn họ có chung một bí mật, là những duyên nợ cõi trần ẩn sâu trong linh tướng…
Nhưng ngoài những điều này ra thì có thứ gì đó rất xa lạ.
Không phải hững hờ và xa lánh, mà là giữa họ đột nhiên có sự cách biệt về thời gian.
Loại cảm giác này âm thầm xuất hiện không báo trước, nó khiến Văn Thời chẳng kịp suy xét.
Mãi cho đến giữa mùa xuân của hai năm sau, khi bọn Văn Thời vừa mới giải xong một cái lồng và quay về núi Tùng Vân, nghỉ ngơi trong chốc lát liền tới đài luyện công trên sườn núi.
Bốc Ninh thuộc dạng thân thể yếu ớt gió thổi là bay, còn hay thích lo nghĩ lảm nhảm, hắn vừa bày trận dọc theo núi đá vừa bảo: “Hôm đó nghe sư phụ nói, chờ sư đệ tròn hai mươi thì chúng ta có thể xuống núi đi ngao du, thu nhận đệ tử, bước vào chốn hồng trần. Nhưng đệ sống với mọi người quen rồi, ở một mình lại cảm thấy cô đơn, hay là cả đám đi chung đi?”
Chung Tư dùng bùa chú phẩy phành phạch, vừa làm rối loạn trận hình Bốc Ninh mới bày xong vừa đáp: “Được đó, trông cái thân thể của đệ, xuống núi một mình chắc chẳng sống nổi mấy ngày.”
Bốc Ninh chỉ vào hắn từ xa, rất không có khí thế cảnh cáo: “Huynh gảy nữa xem? Có tin sáu ngày sau sẽ gặp đại họa hay không?”
“Không sợ, cùng lắm thì anh đây không xuống núi nữa.” Chung Tư ngoài miệng thì nói như thế, nhưng tay lại không dám táy máy nữa, ngoảnh đầu hỏi hai người còn lại.
Trang Dã có biệt danh là “Trang ừ ừ”, bởi vì hỏi hắn cái gì hắn cũng đều trả lời ‘ừ ừ ừ’, không thấy nổi nóng bao giờ. Cho nên Chung Tư chủ yếu muốn hỏi Văn Thời, dù sao vụ cá cược lớn nhất của bọn họ mỗi ngày đều là cược xem vị sư đệ lạnh như băng này đang vui hay là không vui.
Đáng tiếc Văn Thời lúc này đang không vui.
Còn một năm nữa là hắn tròn hai mươi, hắn cũng đã nghe mấy lần câu nói kia của Trần Bất Đáo. Nhưng mỗi lần nghĩ đến chuyện “xuống núi”, có lẽ rất lâu sẽ không trở về, trong lòng hắn lại có cảm giác ngột ngạt và bực bội không nói nên lời.
Lúc đó Trang Dã đang luyện độ chính xác khi dùng dây rối, dùng một sợi tơ mỏng để đánh chim, cá và cánh hoa đang rơi xuống, đánh cả con côn trùng bay ngang qua.
Tiếng xé gió vun vút nghe rất đáng sợ. Nhưng Văn Thời lại không né tránh, hắn cụp mắt tựa vào gốc cây, mím môi sửa sợi dây rối quấn trên ngón tay mình.
“Đệ thấy sao?” Chung Tư gặng hỏi Văn Thời.
Văn Thời không buồn ngước mắt, uể oải đáp: “ Sang năm rồi tính.”
“Sư đệ, lúc quăng dây rối ra làm sao để lực vừa đủ?” Trang Dã chen ngang hỏi một câu.
Văn Thời vẫn chẳng có chút hứng thú nào, vừa lúc nghe thấy có tiếng động trên sườn núi bèn thuận tay làm mẫu cho Trang Dã xem. Kết quả vừa tung dây rối ra thì hắn giật mình ngơ ngác.
Bởi người đi dọc theo đường núi qua đây là Trần Bất Đáo.
Thuật con rối của Văn Thời khi đó cách mức cao nhất không còn bao xa. Dây rối uốn lượn vụt qua, tốc độ vừa nhanh vừa mạnh, không thể nào tránh kịp.
Thế là mấy sợi dây rối bị Trần Bất Đáo đưa tay bắt lấy, nắm chặt trong lòng bàn tay. Những sợi dây trắng như tuyết vòng qua khớp xương ngón trỏ thon dài của hắn, sau đó quấn quanh ngón áp út rồi rủ xuống.
Đó là lần đầu tiên Văn Thời biết được, dây rối có mỗi liên hệ sâu sắc thế nào với người điều khiển rối.
Trong chớp mắt đó, mí mắt hơi rủ của hắn khẽ run rẩy. Mấy ngón tay thon dài sạch sẽ kia dường như không chỉ cầm nắm mấy sợi dây rối, mà là chạm vào linh tướng của hắn.
Hắn hơi gập cong ngón tay kéo căng dây rối của mình, ngẩng đầu nhìn người đang đứng trên con đường núi bên cạnh.
“Mới lâu không gặp mà đã lấy dây rối đánh lén ta rồi à?” Trần Bất Đáo không tức giận, chỉ cười hỏi hắn một câu rồi thả lỏng ngón tay ra.
Dây rối từ trên ngón tay Trần Bất Đáo trượt xuống, những người khác vội vàng cung kính gọi một tiếng “Sư phụ”, riêng chỉ có Văn Thời vẫn không nói gì, nhíu chặt mày thu lại sợi dây rối.
Đêm hôm ấy, Văn Thời lại mơ một giấc mơ đã lâu không thấy.
Vẫn là tòa thành trống cùng với núi thây biển máu kia, vẫn là tiếng quỷ khóc đầy trời. Chỉ là những yêu ma quỷ quái kia đều trở nên mờ nhạt giống như những bóng quỷ vặn vẹo méo mó, tiếng quỷ khóc lúc gần lúc xa, thấp thoáng như tiếng thở dài và tiếng rên rỉ trầm thấp.
Hắn đứng trong một gian nhà trống trải bị bao quanh bởi những bóng quỷ, mấy sợi dây rối quấn quanh mười đầu ngón tay, dây rối ướt sũng, không rõ là máu hay mồ hôi đang chảy dọc theo sợi dây, sau đó nhỏ tí tách xuống đất thành một vũng nước bên cạnh chân hắn.
Hắn chợt nghe thấy sau lưng có tiếng động bèn xoay người kéo chặt dây rối. Ai ngờ lại thấy Trần Bất Đáo chân trần đứng đó, áo trong trắng như tuyết lỏng lẻo buông lơi.
Đôi mắt hắn sâu thẳm, ánh mắt khép hờ cụp xuống nhìn Văn Thời một chút, sau đó giơ tay lên, ngón tay cái lướt qua sợi dây rối căng chặt của hắn, lau đi vệt nước phía trên.
Văn Thời nhìn sợi dây rối dưới ngón tay, khẽ liếm đôi môi khô khốc.
“Gọi ta đi.” Đối phương cầm lấy sợi dây rối của hắn khẽ thì thầm.
Văn Thời hơi rũ mắt, mấp máy môi nói: “Trần Bất Đáo.”
Khi hắn thốt ra ba chữ kia liền giật mình tỉnh lại.
Sợi dây rối chưa tháo trên ngón tay vô thức quăng ra ngoài, đánh gãy giá đỡ chim của lão Mao, rơi xuống đất kêu leng keng.
Hắn ngồi trên giường nhíu chặt lông mày, cơ thể vô cùng căng thẳng, áo trong trắng như tuyết hơi xộc xệch giống hệt trong mơ, mồ hôi lấm tấm không biết từ bao giờ.
Không biết ngoài trời đổ mưa từ khi nào, tiếng nước tí tách chảy dọc theo mái hiên, âm thanh mập mờ ái muội. Văn Thời mím chặt môi, gương mặt trắng nõn phản chiếu ánh nến, chậm rãi điều chỉnh lại nhịp thở.
Cửa phòng đột nhiên bị ai đó gõ nhẹ hai cái, sau đó khẽ khàng mở ra.
Văn Thời ngẩng đầu trông thấy Trần Bất Đáo cầm theo một ngọn đèn đứng ở cửa. Đôi mắt của hắn như hàm chứa ánh nến sáng rực, giọng nói hơi khàn ngái ngủ: “ Sao vậy?”
Văn Thời chỉ im lặng nhìn hắn không trả lời.
Ngoài trời đột nhiên vang lên một tràng tiếng sấm, dọa đám côn trùng trong núi xao động.
Ánh mắt Trần Bất Đáo khẽ liếc xuống, ánh nhìn rơi vào trên tay hắn. Văn Thời cúi đầu nhìn theo liền thấy xung quanh mình bị sương đen bủa vây, đó là trần duyên quấn thân, là yêu hận buồn vui và thất tình lục dục dày đặc nhất thế gian.Bọn Bốc Ninh từng không tin vào việc kỳ quái này nên thử liều một lần. Kết quả bọn chúng dậy giờ nào cũng đều trông thấy chim nhỏ của Văn Thời đang đứng trên đài luyện công chải lông.
À không, nó cũng không được coi là chim của Văn Thời……
Tui chân thành xin lỗi nhưng tui phải trích cái đoạn này xuống để bình luận. Cái mục này chỉ dành cho người trong sáng như tờ giấy than thôi nhé
Đầu tiên là bàn về việc “chim” gì? “Chim” của ai??? Ví dụ =))))
Trần Bất Đáo đưa
cho Văn Thời nuôi dưỡng nên của Trần Bất Đáo là của Văn Thời.
của Văn Thời nhưng vì Văn Thời là của Trần Bất Đáo nên
Văn Thời cũng là của Trần Bất Đáo.
Thôi về vấn đề chính:
Đầu đề kinh trập chỉ khoảng thời gian giữa xuân, là lúc Văn Thời vô tình quăng dây rối bị cụ Trần tóm được nhá (đấy, mà xuân nào chả là xuân … ví dụ mộng xuân chả hạn í hí hí =)))